Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Hướng dẫn
Đề bài: Anh chị hãy bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Mở bài Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Thôi Hiệu (704-754) quê ở Biện Châu, phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Ông là thi nhân thời Đường, đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 11, làm quan đến chức Tư Huân viên ngoại lang. Ông sáng tác ra rất nhiều bài thơ với những đề tài khác nhau nhưng bài nào cũng trở thành những bài được dân gian lưu truyền qua hàng ngàn năm. Tiêu biểu nhất có bài “Hoàng hạc lâu”, bài thơ thể hiện tâm trạng u hoài của tác giả trước thời thế mà tác giả sống, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú. Thi sĩ Tản Đà đã sáng tạo dịch thành thơ lục bát, nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng không ai có thể dịch hay hơn Tản Đà:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói song cho buồn lòng ai?”
Thân bài Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Lầu đẹp, phong cảnh nên thơ, lại được bao phủ bởi một lớp sương mờ càng trở lên đẹp và hấp dẫn lòng người. Xưa tương truyền rằng Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường cưỡi hạc vàng đến chơi. Có biết bao tao nhân mặc khách, những kẻ sĩ đã đến thăm chốn này và làm nhiều bài thơ hay.
Hai câu đầu tiên, thi hứng khơi nguồn từ chuyện “Hạc vàng” trong huyền thoại, nói lên sự xúc động khi được đến lầu xưa. Lầu đứng một mình trơ vơ, mái lầu như chìm trong yên lặng, tĩnh mịch đến lạ thường, hoang sơ, tiêu điều. Bao hoài niệm về “tích nhân” về lầu dâng lên dạt dào, man mác trong lòng nhà thơ:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”
Niềm thương nhớ cảm hoài mỗi lúc một dâng cao, hạc vàng đã cùng tiên bay đi và có khi chẳng bao giờ quay về nữa. Nỗi lòng của tác giả chợt dâng lên một nỗi man macs sầu thương. Nhìn mây trắng phủ trên mái lầu, lơ lửng bay theo gió trên bầu trời xanh kia, làm cho nhà thơ sực tỉnh:
“Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
Hạc vàng với mây trắng, quá khứ và hiện tại, cái mất đi từ nghìn đời xưa với cái hữu hình “còn bay” đối ứng tạo nên những vần thơ đẹp khiến người đọc như chìm sâu vào từng câu chữ. Trong phần đề và thực của “hoàng hạc lâu”, từ “hoàng hạc” xuất hiện ba lần chỉ trong bốn câu thơ lại xuất hiện cùng với nền mây trắng làm cho bài thơ có màu sắc hài hòa tươi đẹp làm gợi lên cảnh sắc mỹ lệ cho bài thơ. Sáu thanh chắc ở câu thứ tư đã làm cho luật thơ Đường bị phá cách “Hoàng Hạc nhất khứ khất phục phản. Âm hưởng câu thơ đột nhiên như bị “thắt” lại thể hiện cảm giác ngẩn ngơ, tiếc nuối của những thi nhân, du khách khi tới thăm lầu vàng. Tác giả phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ xuất sắc cho ta nhiều cảm xúc.
Ngắm trời xanh, mây trắng, lầu vàng mỗi bước chân của thi nhân như dẫn hồn mình phiêu du vào nơi thần tiên. Rồi nhà thơ bâng khuâng nhìn ra phía chân trời xa xa, mặt sông lúc trời tạnh, sáng trong như tấm gương phản chiếu cây cối của nơi Hán Dương rõ ràng. Hai câu luận tiếp theo được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy “lình lịch- “thê thê” là hai nét vẽ tinh tế khắc họa cái hồn nơi cảnh trí non sông. Tác giả đã vẽ lên một kiệt tác với gam màu tươi sáng giúp sống dậy thiên nhiên nơi đây:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”.
Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thủy với đường nét màu sắc dịu nhẹ: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán Dương còn thêm cả màu xanh của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ. Với nghệ thuật miêu tả tinh tế chỉ vài nét chấm phá mà tác giả đã thể hiện được thần thái cảnh vật. Tuy cảnh vật tươi mới nhưng nói có cái gì đó phảng phất cô lieu và hoang vắng như thế lại càng làm cho con người cảm thấy sầu thêm.
Kết thúc bài thơ, với nhịp văn chậm và trầm tĩnh có lẽ ở hai câu cuối này đã làm cho người đọc cảm thấy tiếc nuối và xót xa nhất, buồn nhất do nhịp thơ 2/2/1/2 trong bản phiên âm và nhịp thơ 2/2/2 trong bản dịch của Tản Đà. Ở hai câu cuối thể hiện sư nhớ quê hương da diết của tác giả:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Hình ảnh thấy khói sóng nhớ nhà làm ta lại liên tưởng tới bài Tràng Giang của Huy Cận cũng có câu nhắc tới “khói sóng”:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thôi Hiệu và Huy Cận đều có chung một nỗi nhớ của một người xa quê hương khi chiều về. Nhưng Thôi Hiệu là nhìn thấy khói và sóng nên mới sinh ra tâm trạng buồn thương ấy, còn trong thơ của Huy Cận ông lại nói rằng “không khói hoàng hôn” phải chăng là không có gì gợi nhớ, nhưng vẫn nhớ tới nhà tới quê hương.
Kết luận Bình giảng bài thơ “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
Khi đọc bài thơ của Thôi Hiệu đã làm cho người đọc có những cảm xúc khác nhau. Tuy rằng có rất nhiều các thi nhân tới đây vì tức cảnh sinh tình nhưng bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu vẫn là xuất sắc hơn cả. Bài thơ nhuốm màu buồn, trải dài từng nhịp từng câu thơ chậm rãi, nhẹ nhàng như da diết đến kết thúc bài thơ thì lại cảm thấy chua xót, nuối tiếc.
Theo Nhungbaivanhay.vn