Phânt tích bài Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) – Văn mẫu lớp 11
Phânt tích bài Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) -Bài số 1
Nhắc đến văn học trào phúng Việt Nam người ta nhớ đến ngay các tác phẩm của Tú Xương, Nguyễn Khuyến…của nền văn học trung đại. Ở văn học thời hiện đại, văn học trào phúng vẫn được dâng cao. Đặc biệt tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng. Không chỉ thế người ta còn biết đến bút pháp trào phúng của Nguyễn Ái Quốc. Vốn là một nhà chính trị, Người không nhận mình là một nhà thơ, nhà văn mà mục đích cầm bút của Người là dùng văn chương như là một vũ khí để đấu tranh tư tưởng và khêu dậy ý chí chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm trào phúng của bác chính là truyện ngắn Vi hành. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy, Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc lại viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ..
Truyện ngắn Vi hành được đăng trên báo Nhân Đạo, tác phẩm đã tố cáo được bộ mặt của chính quyền thực dân Pháp và sự lừa bịp của “quốc mẫu” Khải Định. Ngay từ tiêu đề của tác phẩm, không phải ngẫu nhiên “đứa con tinh thần” của Bác có tên như vậy, mà đó là sự suy nghĩ trăn trở của những người sáng tạo ra nó. Bởi lẽ nó đặt làm sao để tên gọi ấy tạo lên được tư tưởng chủ đề của tác phẩm, không chỉ thế nó còn phải gây sự tò mò hấp dẫn người đọc. Nguyễn Ái Quốc đặt tên tác phẩm là Vi hành, hai từ này thường được dùng cho những bậc vua chúa xưa kia đi khảo sát dân tình đóng giả làm dân thường không cho ai biết. Đi một cách bí mật nhằm hiểu được cuộc sống của nhân dân khổ cực đến đâu và có bị áp bức bóc lột không. Đặc biệt, khi đi vi hành không được lấy tên thật của mình mà phải lấy tên giả. Nhưng, trong tác phẩm này của tác giả, Nguyễn Ái Quốc lại chỉ ra khi đi vi hành Khải Định vẫn lấy cái tên của mình và ông vua này không đi xem dân tình thế đất nước mình như thế nào mà đi sang nước Pháp. Như vậy, Khải Định đâu có phải là đi vi hành thực sự vì dân, lo cho dân mà thật sự hắn đang đi giúp nước xâm lược trên chính đất nước của mình. Ngay ở nhan đề của tác phẩm, tác giả đã cho thấy một sự châm biếm sâu cay.
Mở đầu câu truyện một cách khách quan, tác giả không để Khải Định xuất hiện trực tiếp mà thông qua lời kể của hai nhân vật nam nữ thanh niên kể về Khải Định. Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường vệ. Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người “đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm“, y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, hoặc “trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”. Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sựthật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!.Đều là đả kích tên vua nô lệ nhưng nếu Nguyễn Ái Quốc công khai đả kích một cách trực tiếp thì thế giới sẽ thấy được người Việt Nam lên án chính người Việt Nam phản quốc. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã rất tinh tế khi xây dựng tình huống trên.
Chính những lời thoại hết sức khôi hài của hai thanh niên người Pháp, từ đó cho thấy bộ mặt của Khải Định rất đáng chê cười, và cái đích cuối cùng của tác giả khi nói đến Khải Định nhằm mục đích chỉ ra đây đích thị là một ông vua bù nhìn, giống như một con rối để cho thực dân Pháp sai khiến chỉ đạo chứ không phải là một ông vua của một đất nước.
Nếu như dừng ở đây, chắc hẳn bộ mặt bỉ ổi của Khải Định vẫn chưa hiện lên đầy đủ, mà tác gải còn lột tả tiếp, sự châm biếm lên đỉnh điểm. Đó chính là tác giả để cho nhân vật tôi bình luận về chuyến đi sang Pháp của tên vua “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alêchxăng đệ Nhất, … có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không?(…). Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé?”. Không chỉ tố cáo bộ mặt xấu xa của tên vua Khải Định, Nguyễn Ái Quốc còn tố cáo thực dân Pháp. Những người luôn tự nhận mình là nền văn minh và bảo hộ khai hóa nền văn minh cho nước ta. Nhưng thực chất mục đích của chúng là cướp nước ta, áp bức bóc lột dân tộc ta với những chính sách tàn bạo. Đây cũng chính là những tội ác của chúng.
Có thể thấy và cảm nhận được những chua chát, cay đắng trong nụ cười ở đây. Đó là nghệ thuật mỉa mai, châm biếm có tính chất chính luận hết sức già dặn. Tất cả các chữ dùng đều được sử dụng rất đắt và phát huy tác dụng châm biếm tối đa. Chẳng hạn gọi vua Pháp là “bạn” của vua Nam hoặc nói cảnh sát Pháp theo dõi như “mẹ hiền rình con thơ”. Và đó cũng chính là nghệ thuật trào phúng để nhằm châm biếm tên vua bán nước Khải Định và những tội ác của bọn thực dân gây ra cho nhân dân ta.
Phânt tích bài Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) -Bài số 2
Vi hành được sáng tác vào dịp vua bù nhìn Khải Định của triều đình nhà Nguyễn xin thực dân Pháp cho sang Pháp để dự cuộc triển lãm thuộc địa tổ chức ở Mác-xây (Marseille). Trong thời gian này, dư luận cho rằng Khải Định có một số việc làm ám muội. Bất bình trước thái độ và hành động làm tổn thương tới quốc thể ấy, Nguyễn Ái Quốc viết truyện này nhằm mục đích lột trần chân tướng của một tên vua bán nước.
Cái độc đáo của truyện thể hiện ngay ở cách đặt tên với hàm ý giễu cợt, đả kích nhẹ nhàng mà thâm thuý, sâu cay. Vi hành vốn dĩ là cách gọi những cuộc di kín đáo của các bậc vua chúa ngày xưa, mục đích là được tai nghe mắt thấy hiện thực đời sống dân chúng, từ đó có chính sách cai trị đúng đắn hơn, hợp lí hơn. Nhưng ở đây tác giả đã lồng cho Vi hành một ý nghĩa hoàn toàn ngược lại: để ám chi những cuộc đi lén lút, bất chính, cốt thỏa mãn những lạc thú cá nhân của Khải Định.
Tác giả khôn khéo trình bày truyện dưới hình thức một bức thư gửi cho cô em gái. Thực ra đây là truyện hư cấu một trăm phần trăm. Nhưng cái tài của tác giả là bịa mà như thật, còn hơn cả sự thật. Toàn bộ câu chuyện là một xâu chuỗi những sự hiểu lầm ngày càng tăng. Đôi trai gái người Pháp lầm người thanh niên da vàng ngồi cạnh là Khải Định. Dân chúng Pháp lầm tất cả những người da vàng, mũi tẹt, mắt xếch trên đất Pháp là vua xứ An Nam. Đến ngay chính quyền Pháp cũng lẫn lộn không phân biệt đâu là Khải Định, đâu là kẻ đang bị theo dõi (Nguyễn Ái Quốc) nên lầm tưởng mà đối xử như với vua xứ An Nam. (Nguyễn Ái Quốc đi đâu chúng cũng cho tay sai đi theo đến đó).
Sự thật thì không bao giờ có chuyện nhầm lẫn buồn cười như vậy. Tác giả đã khéo bịa ra các tình huống như thật dưới hình thức như đùa. Nguyên nhân của xâu chuỗi nhầm lẫn tai hại trên là do các cuộc vi hành của Khải Định.
Qua lời trò chuyện của đôi trai gái người Pháp, người đọc có thể hình dung ra Khải Định với những nét lố bịch: mặt mũi ngây ngô, điệu bộ lúng ta lúng túng, quần áo, mũ mãng lố lăng… Thái độ của dân chúng Pháp là khinh bỉ, coi thường hắn.
Để cho câu chuyện đạt được hiệu quả châm biếm, đả kích cao nhất, tác giả đã xen kẽ những đoạn đối thoại của đôi thanh niên Pháp với những đoạn kể chuyện cho cô em họ nghe. Nhân vật cô em họ cũng là sản phẩm của hư cấu, là phương tiện để Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tố cáo tội lỗi của tên vua bù nhìn Khải Định đã thừa lệnh thực dân Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện, đẩy họ vào tình trạng sống khốn cùng, bế tắc.
Sự độc đáo còn thể hiện ở cách dẫn chuyện dí dỏm của tác giả. Ngòi bút biến hóa linh hoạt, hấp dẫn, văn ngắn gọn và súc tích, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Chất hài hước trong truyện vừa mang tính sôi nổi của phương Tây vừa mang tính thâm trầm, sâu sắc của phương Đông.
Truyện ngắn Vi hành chứng minh cho sức tung hoành của ngòi bút đầy sáng tạo Nguyễn Ái Quốc. Truyện được viết nhằm mục đích chính trị rõ ràng nhưng vẫn là một tác phẩm văn chương đích thực. Nó xứng đáng tiêu biểu cho phong cách văn xuôi Nguyễn Ái Quốc.
Phânt tích bài Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) -Bài số 3
Có lẽ trong tất cả chúng ta, ai cũng đã từng hoặc chí ít là một lần đọc văn chương của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Và đặc biệt ai đã từng đọc, học, tìm hiểu và nghiên cứu về những truyện ngắn của Người hẳn không thể không khẳng định “Chất trí tuệ và tính hiện đại là những nét đặc sắc nhất của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc” (Văn 12, phần Văn học Việt Nam, NXB Giáo Dục 1999, trang 13).
Quả thật đúng như vậy, những nét đặc sắc, tinh tuý đó toả sáng trong tất cả các tác phẩm truyện ngắn của Người. Và một trong những truyện ngắn thể hiện thành công nhất, rõ nét nhất và sâu sắc nhất có lẽ là truyện ngắn “Vi hành” – một truyện ngắn đầy tính sáng tạo, độc đáo.
"Vi hành" được tác giả Nguyễn Ái Quốc viết vào năm 1923 khi Khải Định – tên bù nhìn xứ An Nam sang Pháp dự Hội chợ Vec-xây. Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn này nhằm đả kích sự ngu dốt của tên vua Khải Định, phơi bày tố cáo bản chất của bọn thực dân Pháp, thể hiện thái độ của người dân Pháp đối với sự “bảo hộ” của nước Pháp với dân Việt Nam. Và qua tác phẩm, ta cũng thấy được thái độ, tư tưỏng của tác giả.
Khi đọc truyện ngắn này, chúng ta không dễ dàng nhận ra ngay được “chất trí tuệ và tinh thần hiện đại”. Những nét đặc sắc này, chúng ta chỉ nhận ra qua từng câu văn, từng tình huống truyện, từ những hư cấu… do tác giả viết nên. Và khi càng đọc, càng suy ngẫm, chúng ta như càng nhận rõ hơn được những tinh hoa đó trong tác phẩm của Người.
Ngay tiêu đề của tác phẩm đã gây ra một sự chú ý đặc biệt đối với người đọc. "Vi hành", cũng chỉ bằng hai chữ thôi mà ta như nhận thấy được cái bản chất xấu xa của một ông vua. Mới đọc, ta cứ nghĩ đó tựa như một chuyến "Vi hành" thật, nó mang một nhiệm vụ cao cả, nhưng khi đã đọc hết rồi, ta mới thấy đây quả là một chuyến vi hành chưa từng có trong lịch sử. Nó chưa từng có trong lịch sử vì cuộc vi hành này mang đầy tính chất mờ ám, mang ý nghĩa xấu xa, bởi như tác giả đã nói “hay là vì Ngài chán cảnh cuộc đời của một ông vua, nay ngài muốn nếm cuộc đời của các cậu công tử bé”.
Vậy là ngay từ cách đặt đầu đề đã toát lên ý tưởng của toàn bộ tác phẩm. Về sau này cũng có rất nhiều nhà văn đã thể hiện ý đồ nghệ thuật, tư tưởng của mình thông qua cách đặt tên cho tác phẩm như “Vợ nhặt” (Kim Lân), “Đôi mắt” (Nam Cao), “Mùa lạc” (Nguyễn Khải)… Đây phải chăng là thành công đầu tiên của truyện ngắn "Vi hành"?
Tác phẩm được nhà văn cấu thành từ một tình huống nhầm lẫn. Đó là sự nhầm lẫn của một đôi thanh niên nam nữ người Pháp trên một chuyến tàu đi cùng tác giả. Đây là một tình huống nhầm lẫn vô cùng ngẫu nhiên. Trên một chuyến tàu ở Pari, tác giả đã bị đôi thanh niên nam nữ người Pháp tưởng nhầm là một vị vua xứ An Nam. Cứ tưởng đó chỉ là một sự nhầm lẫn bình thường, nhưng chính sự nhầm lẫn này đã giúp tác giả khám phá ra bao điều thú vị.
Từ một người dân bình thường, bỗng nhiên tác giả trở thành một “vị vua đáng kính” trong con mắt người dân Pari. Mà không phải xuất hiện trong một chuyến đi có sự tiếp đãi long trọng, mà đó là một chuyến "Vi hành" đầy mờ ám. Phải chăng do cứ tưởng nhà văn – “ông vua” không biết tiếng Pháp mà đôi thanh niên nam nữ kia tha hồ mà vẽ ra một ông vua qua phương tiện ngôn từ.
Thật trớ trêu thay ông vua kia xuất hiện trong con mắt họ với bộ dạng và tính cách đầy vẻ nực cười và châm biếm. Mở đầu tác phẩm ta đã thấy ngay sự mỉa mai đầy châm biếm đó: “Hắn đấy!”. Phải! Một vị vua xuất hiện “trang trọng” trong một “lời chào” phía sau “hắn đấy”. Với đôi nam nữ thanh niên kia, thì ấn tượng về một ông vua mà họ gặp có lẽ là trước đó không thể nào phai nhạt được. Đó là một con người có “nước da vàng ủng như quả chanh”, “vẫn cái mũi tẹt ấy”. Còn giờ đây cũng vẫn là da vàng, mắt nhỏ, mũi tẹt nhưng có khác là hôm nay “hắn” không mặc những bộ trang phục diêm dúa, với những bộ cườm hạt, ngón tay đeo nhẫn mà đầu lại đội cái chao đèn. Bởi theo họ hôm nay “hắn” đang đi "vi hành".
Với họ, thì ông vua ấy cũng chỉ là một trò hề rẻ tiền và có khi lại chẳng mất một xu nào. Họ nghĩ rằng đúng lúc họ đang không có trò gì để giải trí, thì “đúng lúc ấy lại có một anh vua đến với chúng ta”. Nhưng rồi anh vua ấy nào có ra gì, đôi trai gái người Pari ấy đến xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên” rồi đi xem “những trò nhào lộn của sư Thánh xứ Công Gô” đang còn mất tới nghìn rưỡi Phơ-răng, đằng này chúng ta lại được xem anh vua này mà không tốn một xu nào. Và còn nghe đâu những người làm sân khấu đang kí hợp đồng để cho ông vua kia diễn kịch nữa cơ đấy.
Tất cả những gì thuộc về bản chất của tên vua bù nhìn Khải Định đã được phơi bày ra trước mắt bàn dân thiên hạ, đó chỉ là một thằng hề rẻ tiền để người khác giật dây. Tên vua ấy đường đường là ông vua của một nước mà sang bên Pháp chơi bời sa đoạ đến mức phải “gửi tuốt hành lí” rồi cả ông quan bà kiếc ở nhà ga, rồi phải nợ tiền vì mua quá nhiều thứ, thật là không còn nỗi nhục nhã nào hơn. Dưới con mắt của người dân Para, cuộc vi hành của tên vua kia chỉ là cuộc vi hành của một ông vua ít cao thượng.
Có thể nói, để tạo ra một tình huống nhầm lẫn đến mức như tự nhiên thì quả là ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc rất sắc sảo. Dưới ngòi bút ấy, tất cả những trò bịp bợm của bọn thực dân, sự ngu dốt của tên vua bù nhìn hiện ra rõ mồn một – tựa như một đoạn phim quay cận cảnh.
Không chỉ người dân Pháp nhầm lẫn tác giả với ông vua kia, mà ngay cả chính phủ Pháp cũng có sự nhầm lẫn, họ sợ phải mang tiếng nên họ tiếp đãi nhà văn, với họ tất cả những ai là người da vàng mũi tẹt đều là vua cả. Ngay cả bọn mật thám Pháp cũng “bám chặt lấy đế giầy” của tác giả. Quả là một sự nhầm lẫn đáng khinh bỉ đối với chính phủ Pháp.
Có thể nói, nếu không có một đầu óc quan sát nhanh nhạy, không có một sự hiểu biết sâu rộng, không có một trí tưởng tượng và tài năng về văn chương thì có lẽ Nguyễn Ái Quốc không thể sáng tạo nên một tình huống nhầm lẫn đầy bất ngờ đến như vậy được. Chính sự nhầm lẫn này đã tạo nên một hiệu quả nghệ thuật hết sức thành công và đầy ấn tượng.
Với Nguyễn Ái Quốc, ở "Vi hành" không chỉ là sự sáng tạo tình huống truyện độc đáo mà đó còn là một sự tiếp cận với những nét hiện đại của phong cách văn chương châu Âu. Người viết "Vi hành" bằng chính tiếng Pháp, sau đó Người dịch ra tiếng Việt. Phải chăng tác giả muốn người Pháp cũng nhận ra được bộ mặt thật của bọn vẫn thường tự xưng là người “bảo hộ” cho dân tộc Việt Nam? Và Người cũng muốn người dân Việt Nam hãy nhìn thấy một tên vua bù nhìn ngu dốt, một lũ “bảo hộ”, “khai hoá” nhưng lại dìm dân ta xuống bùn đen.
"Vi hành" được viết dưới dạng một bức thư gửi cho người em gái, tức cô em họ của tác giả. Chúng ta thử đặt câu hỏi xem tại sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn hình thức viết thư? Phải chăng đó là một lối viết muốn gây ấn tượng đối với người đọc.
Sử dụng lối viết thư, Nguyễn Ái Quốc không chỉ tạo được ấn tượng đối với người đọc mà còn thể hiện được ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Viết thư đó là hình thức viết mà người viết có thể tâm sự hết lòng mình, có thể chuyển từ truyện này sang truyện khác, có thể nói những suy nghĩ của mình. Có những lúc tác giả đang kể về cuộc đối thoại của đôi trai gái, đột nhiên tác giả lại xen vào những câu nói của chính mình, rồi Người lại nói ra những suy nghĩ của mình chẳng hạn như: “Tất cả những người dân da vàng mũi tẹt đều là vua trên đất Pháp”.
Có thể nói, với việc sử dụng hình thức viết thư, tác giả đã thể hiện được tất cả những suy nghĩ của bản thân mình và qua đó cũng truyền tới ngưòi đọc những cảm nhận của mình và từ đó, người đọc cũng thấy được ý tưởng của tác giả muốn nhắn gửi.
Trong "Vi hành" có sự châm biếm hài hước, cái châm biếm hài hước ấy được thể hiện qua việc mô tả sự vật, sự việc của tác giả. Đó là sự hài hước mà sâu cay, phải chăng chính sự châm biếm ấy nó ẩn trong từng câu nói, từng đoạn hội thoại, từng chữ viết của tác giả để tạo ra được ý đồ nghệ thuật, góp phần biểu hiện thành công tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Một cách nữa để tác giả làm rõ cuộc “vi hành” của Khải Định là cách tác giả dùng biện pháp so sánh. Người đã so sánh cuộc “vi hành” của Khải Định với những lớp người đi trước. Với các bậc vua chúa xưa kia đi "vi hành" họ cải trang thành dân thường để đi vào cuộc sống lao động của người dân, họ đi để lắng nghe ý kiến, để chứng kiến cuộc sống của nhân dân, từ đó các vị vua chúa ấy cải thiện đời sống cho nhân dân, làm cho dân no ấm hạnh phúc hơn.
Còn cuộc “vi hành” của Khải Định thì khác hẳn, Khải Định muốn vi hành với ý nghĩ xấu xa “Phải chăng ngài chán cảnh cuộc đời các ông vua to và muốn nếm cuộc đời của các cậu công tử bé”. Tác giả đã đề xuất ra nhiều tình huống giả định đối với cuộc vi hành của Khải Định: “Hay là Ngài muốn xem người dân ở đây dưới sự thống trị của bạn Ngài có được hút nhiều thuốc phiện như dân An Nam hay không”. Có vô vàn lý do thiếu cao thượng cho cuộc “vi hành” của Khải Định.
Không chỉ dùng hình thức so sánh mà tác giả còn sử dụng biện pháp hư cấu văn chương để tạo ra cô em họ, trên thực tế thì có lẽ không hề có cô em họ nào như vậy cả, nhưng tác giả lại viết thư gửi cho cô em họ ở quê hương. Có thể nói Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng rất nhiều hình thức nghệ thuật mới mẻ để thể hiện chủ đề tư tưởng của “vi hành”, từ đó, Người đã tạo ra một câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn người đọc từ đầu cho đến lúc kết thúc truyện. Quả là một ngòi bút đầy tài năng.
Người ta thường nhắc đến “vi hành” như một câu chuyện vui, châm biếm nhưng đó là sự châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay, cùng với các tác phẩm như “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, hay “Con Rồng Tre”, "Vi hành" đã tạo nên sức mạnh văn chương đâm thẳng vào bản chất dơ dáy, nhơ bẩn và đầy mưu toan nham hiểm của bọn thực dân phong kiến, đúng như lời người ta nói “Văn chương cũng là một mặt trận, anh chị em nghệ sĩ phải là một chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Qua “Vi hành” và một số tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, ta thấy chính Người cũng là một chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Có thể khẳng định rằng, qua tác phẩm "Vi hành" thì “Chất trí tuệ và tính hiện đại” như lan toả ra khắp truyện ngắn, nó không lộ ra để cho ta thấy ngay được, nhưng cũng không chìm quá sâu, mà nó được thể hiện ngay trong từng câu văn mà Người viết ra. Và cái chất trí tuệ và tính hiện đại ấy không nằm trong một tác phẩm mà nó biểu hiện ở tất cả chặng đường văn chương của Người và đặc biệt là trong những truyện ngắn.
Phânt tích bài Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) -Bài số 4
Truyện ngắn này được đăng trên báo Nhân Đạo ngày 19-2-1923. Đây là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1922 thực dân Pháp đưa vua bù nhìn Khải Định sang dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác xây, lừa gạt nhân dân Pháp, khẳng định tình hình ở Đông Dương rất ổn định.Để đập tan âm mưu trên Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm Vi hành cùng với tác phẩm Con rồng tre,Lời than vãn của bà Trưng Trắc. Tác phẩm đã tố cáo được bộ mặt của chính quyền thực dân Pháp và sự lừa bịp của “quốc mẫu” Khải Định.
Trước hết là nhan đề của tác phẩm. Để đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là cả sự suy nghĩ trăn trở của những người sáng tạo ra nó. Bởi lẽ đặt làm sao để tên gọi ấy có thể toát lên được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời gây sự tò mò hâp dẫn người đọc. Hồ Chí Minh đã đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là vi hành. Hai từ này được sử dụng để chỉ cho những bậc vua chúa xưa kia đi khảo sát dân tình đóng giả làm dân thường không cho ai biết. Đi một cách bí mật nhằm hiểu dược đời sống của nhân dân đến đâu. Chỗ nào mình còn chưa làm được cho nhân dân, nơi nào loạn, nơi nào nghèo. Đặc biệt khi vi hành thì không thể lấy cái tên thật của mình mà phải lấy tên giả, lén lút đi. Thế nhưng ở đâycua Khải Định vẫn lấy cái tên của mình và ông vua này không phải đi xem dân tình thế thái ở đất nước mình ra sao mà là đi sang nước pháp. Có thể nói ngay nhan đề của tác phẩm tác giả đã tạo nên một sự châm biếm sâu cay. Khải Định đâu có đi vi hành thật sự mà hắn đang đi giúp nước xâm lược xâm chiếm chính đất nước mình.
Để mở đầu cho sự đả kích và cười mỉa mai tên vua bù nhìn Nguyễn Ái Quốc đã dựng lên một đoạn đối thoại giữa hai thanh niên nam nữ khi trông thấy Khải Định. Cách mở đầu và xây dựng lên truyện như thế khiến cho câu chuyện về tên vua bù nhìn trở nên khách quan chân thực hơn. Đều là đả kích tên vua nô lệ đấy nhưng nếu Nguyễn Ái Quốc công khai đả kích Khải Định một cách trực tiếp thì thế giới sẽ thấy được người Việt Nam lên án chính người Việt nam phản quốc. Như thế thì đối đầu nhau không khách quan. Còn ở đây tác giả dùng đoạn hội thoại của đôi nam nữ chính nước xâm lược mình để thấy rõ được bộ mặt kệch cỡm của tên vua bù nhìn ấy. Đây quả thật là một sự lựa chọn sáng suốt của Người. Không những thế Bác còn rất khéo léo khi xây dựng lên một tình huống nhầm lẫn để bộc lộ bản chất của Khải Định. Người mà đôi thanh niên nam nữ kia nhìn thấy lại chính là Nguyễn Ái Quốc. Sự nhầm lẫn của họ vô tình đã góp phần vào sự đả kích tên vua nô lệ. Người phương Tây họ khó phân biệt được bộ mặt khác nhau của người da vàng. Chính phủ Pháp lại cho rằng bất cứ người An Nam nào cũng được cho là vị hoàng đế. Từ đó ta hiểu được những nhận xét của người Pháp về Khải Định.
Chân dung của tên vua Khải Định hiện lên với những nét rất châm biếm. Bộ mặt thì mũi tẹt, mắt xanh, da bủng. Đó hẳn là một bộ mặt ngộ nghĩnh, lố bịch. Còn trang phục của hắn thì sao?. Cái nón chúp đèn, quấn khăn, ngón tay đeo đầy nhẫn và hạt cườm, đủ bộ lụa là. Nói tóm lại nhìn trang phục của hắn như kiểu khoe của lố lăng. Nhìn hắn chẳng khác nào tên hề, một con rối không hơn không kém. Không những thế, đôi thanh niên nam nữ ấy còn so sánh vua Khải Định với những trò ở đấu xảo một cách khôi hài, phải trả hẳn một nghìn rưỡi phơ răng để xem. “Hôm nay chúng mình không mất tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay bên cạnh”. Đó là những lời thoại hết sức khôi hài của hai thanh niên. Từ đó cho thấy bộ mặt của Khải Định rất đáng cười. Họ nghĩ rằng có thể các nhà hát và múa rối có thể kí kết với hắn để làm thuê nữa. Vậy chẳng khác nào nói vua Khải Định là một con rối. Thì cái đích mà tác giả muốn nói với bạn đọc là như thế. Khải Định giống như một con rối để cho thực dân Pháp sai khiến chỉ đạo đúng hơn là một ông vua của một nước.
Đến đây ta có thể thấy được sự miêu tả, đả kích một cách tài tình của tác giả đối với tên vua bù nhìn Khải Định, hắn hiện lên dưới nhiều góc độ, qua giọng văn châm biếm, mỉa mai rất nhẹ nhàng của tác giả. Hình ảnh một vị vua cuối cùng cũng chỉ là một trò giải trí rẻ tiền dưới con mắt của người Pháp không hơn không kém.
Nhưng cuộc vi hành chưa dừng lại ở đó, nếu dừng lại ở đó thì làm sao có thể thấy hết được bộ mặt của tên vua xâu xa ấy. tác giả để cho nhân vật tôi bình luận về chuyến đi sang Pháp của tên vua này. Để tố cáo vạch trần bộ mặt xấu xa và thực chất của chuyến đi này của tên vua Khải Định thì Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên hàng loạt các câu hỏi lấp lửng mang tính chất giễu cợt: “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lếch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không?. Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?”.
Không chỉ tố cáo vạch trần bộ mặt xấu xa của tên vua Khải Định mà Người còn tố cáo thực dân Pháp. Những người luôn tự nhận mình là văn minh và bảo hộ khai hóa nền văn minh cho nước ta. Thực chất của chúng là cướp nước ta, biến nước ta thành nô lệ. Chính sách và chế độ của họ chính là tội ác họ gây ra với dân tộc ta.
Trước hết điều đó thể hiện rõ nhất là đôi nam nữ kia. Họ đi cười vua Khải Định nhưng thật ta cũng đang cười chính bản thân mình. Bởi vì họ là người “khai hóa” văn minh nhưng lại là người đầu tiên kì thị chủng tộc. Họ chê người da vàng mặt bủng như quả chanh.
Tiếp đến là tác giả tố cáo chính sách tàn ác của thực dân Pháp. Chẳng biết khai hóa văn minh kiểu gì mà lại dùng thuốc phiện và rượu để làm suy nhược giống nòi của ta. Thế chẳng khác nào giết người cả mà lại đi tung tin với thế giới rằng khai hóa văn minh. Nhưng việc làm của chúng đi ngược lại với những điều chúng nói.
Mặt khác nhà văn còn tố cáo chế độ mật thám của thực dân Pháp. Đến chính phủ Pháp cũng nhầm lẫn cho nên chúng lệnh cho mật thám theo dõi tất cả những người có da vàng. Đó quả là một điều ngu dốt. Chúng đón tiếp những người da vàng như thượng khách một cách nhiệt tình và hết sức tận tụy. Ngay cả nhân vật tôi cũng được đón tiếp theo cách ấy. Nếu họ mà không thấy “tôi” đâu thì lại cuống cuồng hết cả lên.
Tóm lại qua truyện ngắn vi hành Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xấu xa của tên vua Khải Định. Bằng hàng loạt những câu từ châm biến, lời nói mỉa mai, đặc biệt là tình huống nhầm lẫn đã gây hiệu ứng mạnh trong việc tố cáo bộ mặt tên vua nô lệ và chính sách cai trị của bọn thực dân Pháp. Chúng đang cấu kết với nhau lừa gạt dư luận nhưng những người yêu nước như Hồ Chí Minh sẽ không bao giờ để cho chúng đạt được mục đích xấu xa ấy.
Vũ Hường tổng hợp