Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu văn 11
Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu văn 11
Hướng dẫn
Đề bài: Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu. Em hãy Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu trong chương trình văn học lớp 11.
Mở bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu văn 11
Xuân Diệu là nhà thơ khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt say mê cuồng nhiệt. Bài thơ được rút ra từ tập thơ thơ (1938) tập trung cao nhất khát vọng sống mãnh liệt ấy. Ở bài thơ thi sĩ đặt khát vọng giao cảm với tuổi trẻ và xuân tình. Qua đó bộc lộ một cảm xúc triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Đúng như lời nhận xét của Hoài Thanh: “ Xuân Diệu là nhà thơ say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời sống vội vàng cuống quýt muốn tận hưởng tất cả những gì của nhan sắc trời ban, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết”.
Thân bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu văn 11
Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ ngũ ngôn chắc nịnh như một lời khẳng định:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu vốn là người phóng túng từng ước mình như phấn thông vàng làm đẹp không gian, để gieo rắc tình yêu đi khắp nơi mà ở đây chàng thi sĩ lại đang đắn đo dè xẻn từng chút nắng chút gió, tằn tiện hương sắc trời ban tặng. Phải chăng nhà thơ nhận ra cuộc sống là tuyệt diệu nhưng mỏng manh qua nên cố níu giữ bằng mọi cách?. “nắng” và “gió” vốn là những hiện tượng của tự nhiên nó có quy luật riêng. Vậy mà ở đây thi si lại đòi đoạt quyền tạo hóa để tắt nắng buộc gió lại để giữ lại những hương sắc trời ban. Các động từ “tắt nắng” “ buộc gió” thể hiện khát khao níu giữ thiên nhiên níu giữ cuộc đời của Xuân Diệu. gió đâu có thể buộc được, nắng làm sao có thể tắt. Dẫu biết rằng không thể nào đoạt được quyền tạo hóa nhưng bằng tình yêu thiên nhiên cuộc đời nhà thơ vẫn “tham lam” thể hiện nguyện vọng của mình. Điệp từ “tôi muốn” càng thể hiện rõ ước muốn của nhà thơ. Phải chăng một đời người với ông là chưa đủ để tận hưởng hết những điều tuyệt vời của cuộc sống ấy.
Đến những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc của thiên nhiên đất trời. Có thể nói cuộc đời trước mắt nhà thơ giống như một thiên đường trên mặt đất:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Với cặp mắt xanh non biếc rờn Xuân Diệu đã nhìn cuộc sống thật nên thơ nên nhạc, đáng yêu, đáng sống, đáng đắm say. Chất nhạc chất họa trong thơ ông tấu lên một bữa tiệc trần gian một thiên đường trên mặt đất với biết bao nhiêu là cảnh vật. bao nhiêu là màu sắc hấp dẫn lôi cuốn. đó là một khu vườn xuân ngập tràn hương sắc của đồng nội xanh rì, của lá tơ phơ phất. Không những thế bức tranh khu vườn ấy còn có âm thanh của tiếng chim yến anh hót ngọt ngào, nó tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, âm thanh của niềm vui mỗi buổi sáng sớm đến. Thêm nữa bức tranh ấy còn có cả tình yêu đôi lứa khi hiện lên trên hình ảnh của ong bướm với tuần tháng mật. Đó là niềm hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ trong tuần trăng mật đầy yêu thương. Điệp cấu trúc này đây tác giả như muốn mời gọi, bày ra, phô ra những gì đẹp nhất trên cõi hồng trần này. Đặc biệt là hình ảnh tháng giêng ngon như một cặp môi gần cho thấy sự đẹp tuyệt vời lôi cuốn ấy. Tháng giêng trong mắt nhà thơ giống như một bờ môi căng mộng của người con gái. Ta thấy quan niệm về cái đẹp của Xuân Diệu rất tiên tiến. nếu như ngày trước thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì giờ đây con người trở thành thước đo vẻ đẹp cho thiên nhiên. Có thể nói đây là một câu thơ đắt giá của nhà thơ Xuân Diệu.
Qua đây ta thấy một thiên đường được nhà thơ vẽ lên trước mắt chúng ta thật hấp dẫn lôi cuốn đến kì diệu. Không những thế ẩn sau những câu thơ ấy ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết da diết của thi sĩ.
Yêu thiên nhiên như thế nên Xuân Diệu không thể dấu được cảm xúc của mình. Đó là một xúc vui sướng nhưng lại vội vàng một nửa, hạnh phúc ấy làm cho tác giả phải cố gắng sống nhanh nhất có thể để tận hưởng hết:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hồi xuân”
Dấu chấm giữa dòng như sự ngăn giữa hai thái cực của cảm xúc. Tác giả hạnh phúc nhưng cũng vội vàng để nhanh chóng tận hưởng cho hết những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống này. Nhà thơ không chờ nắng hạ mới hồi xuân:
“Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi”
Và trước sự gấp gáp ấy nhà thơ nhận ra được mọt chân lí, một quy luật bất biến mà chúng ta không thể nào làm khác được:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và tôi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Theo quan niệm truyền thống thì thời gian luân chuyển tuần hoàn bốn mùa xuân, hạ thu đông, lấy sinh mệnh vũ tru làm thước đo thời gian. Chính vì thế nên con người sống an nhiên tự tại. Còn theo Xuân Diệu thì thời gian là một tuyên tính một đi không trở lại nữa. Nhà thơ lấy tuổi trẻ một khoảng thời gian ngắn ngủi nhất trong đời làm thước đo thời gian. Chính vì thế mà nhà thơ sống vôi vàng vì tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. những hình ảnh thơ đối lập kết hợp với những từ nhằm khẳng định những sự thật hai năm rõ mười “nghĩa là” và giọng điệu thơ như tranh luận hùng biện ta thấy rõ được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng hoài nghi âu lo, tiếc nuối vì nhìn đâu cũng thấy sự chia phôi.
Đoạn thơ cuối tác giả thể hiện điệu sống vội vàng và khát khao cuồng nhiệt của nhà thơ:
“Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn diết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Đại từ nhân xưng ta được nhắc đến nhiều lần thể hiện cái tôi cá nhân bản ngã của nhà thơ. Một tình cảm chủ quan được phô ra trước mắt mọi người. Nào là “mây đưa” “gió lượn”, nào là “sự sống mơn mởn”, rồi lại “ cánh bướm” tình yêu, nụ hôn. Tất cả những thứ ấy được gắn liền với những động từ mạnh như “ôm”, “diết” “say” thậm chí là “cắn” kết hợp với những tính từ chỉ mức đọ cao nhất như “ chếnh choáng”, “đã đầy” rồi lại no nê để thể hiện một sự cuồng nhiệt với cuộc đời của nhà thơ. Những cảnh thiên nhiên ấy làm cho nhà thơ yêu mến đến mức muốn cắn.
Kết luận Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu văn 11
Qua đây ta thấy vội vàng giống như một lời tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu mà mỗi câu mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, cuống quýt của nhà thơ. Bài thơ là bức thông điệp thẩm mĩ mà thi nhân muốn gửi tới những tri âm tri kỉ ở mọi phương trời, mọi thời khắc, mọi thế hệ: hãy yêu thương sự sống hãy biết hưởng thụ hạnh phúc trần thế, quý trọng tuổi thanh xuân, sống cao độ từng phút từng giây cuộc đời.
Theo Nhungbaivanhay.vn