Phân tích hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Văn mẫu lớp 12


Phân tích hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài số 1

Ở mỗi tập thơ Xuân Quỳnh những bài thơ viết về tình yêu thường để lại cho chúng ta rất nhiều ấn tượng khó quên. Trong đó có bài thơ "Sóng" – bài thơ tình duy nhất in trong tập thơ "Hoa dọc chiến hào" được nhiều người yêu thích bởi cái dạt dào sôi nổi mà sâu lắng thiết tha trong tình yêu. Bài thơ sáng tác vào năm 1967 nhân dịp nhà thơ đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền đã nói lên được tâm hồn người phụ nữ khi yêu, khao khát được yêu và sự tin tưởng vào tình yêu nhưng cũng đầy suy tư, trăn trở trước tình yêu của chính mình.

Bài thơ có nhan đề là "Sóng", đó vừa là sóng biển nhưng đồng thời cũng chính là những con sóng lòng của tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Cùng với hình tượng "sóng" thì trong bài thơ còn xuất hiện hình tượng "em". Sóng là ẩn dụ của tâm hồn người con gái khi yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình. "Sóng" và "em" tuy hai mà một, có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau, để tìm ra sự tương đồng, có lúc lại hòa làm một để tạo nên âm vang cộng hưởng. Hai hình ảnh cứ đan xen, quấn quýt, hòa quyện song song và xuất hiện từ đầu cho tới cuối bài thơ. Tất cả đều thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ khi biết yêu.

Cái hay của bài thơ còn thể hiện ở âm điệu. Âm điệu được xây lên bởi những câu thơ năm chữ, nhịp điệu phóng túng, linh hoạt và với những nét nghệ thuật hô ứng tương xứng trùng điệp… nó đã khiến cho người đọc cảm nhận được âm điệu của những con sóng biển dạt dào, sôi nổi lúc thì nhịp nhàng, êm ái. Tuy nhiên, bài thơ còn giúp cho người đọc cảm nhận được âm điệu tâm hồn người con gái khi yêu chính là nỗi lòng đang tràn ngập khát khao yêu thương, một nỗi lòng đang chứa chan biết bao cung bậc tình cảm. Mọi thứ ấy có sự hòa quyện và đã tạo nên vẻ đẹp giàu tiếng nhạc cho bài thơ.

Hai khổ thơ đầu là hình ảnh con sóng và trạng thái khát vọng của một tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ xuất hiện rất nhiều những tính từ tương quan đối lập nhau: "dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ". Những tính từ này đã gợi ra các trạng thái của sóng ở hai chiều tương phản, lúc thì rất dữ dội, lúc thì lại rất hiền dịu, lúc thì đầy âm thanh, lúc thì lại đầy sự tĩnh lặng. Quan hệ từ "và" cùng với vị trí của các tính từ đã làm nổi bật sự chuyển động, chuyển hóa không ngừng của sóng theo thời gian. Hai câu thơ cũng chính là phép ẩn dụ để nói về trạng thái tâm hồn của người phụ nữ khi yêu, lúc thì sôi nổi cuồng nhiệt, lúc thì đầy dịu dàng, sâu lắng. Hai trạng thái tình cảm này cũng luôn có sự chuyển động, chuyển hóa cho nhau. Cái hay của câu thơ là từ trạng thái của sóng, tác giả đã phát hiện ra bản chất của tâm hồn người con gái khi yêu đầy nữ tính.

Hai câu thơ tiếp là sự bứt phá của sóng trong cái không gian nhỏ hẹp để tìm nơi rộng hơn. Vẫn tiếp tục nói về sóng mà Xuân Quỳnh đã thể hiện sự băn khoăn, trăn trở của sóng và sự băn khoăn đó thể hiện với hai câu thơ: "Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể". Ở đây, tác giả đưa ra hai môi trường tương phản nhau. "Sông" – một không gian hẹp, chật chội nhưng cũng là nơi khởi nguồn của sóng, nơi mà sóng tồn tại. Đối lập với sự chật hẹp của "sông" là một không gian rộng lớn của biển cả mênh mông. Ở câu thơ "Sóng tìm ra tận bể", tác giả không dùng từ "biển" mà lại sử dụng từ "bể", vì từ "bể" là âm mở đã giúp chúng ta cảm nhận không gian vô cùng, vô tận của biển khơi mà đây chính là môi trường sóng đang hướng tới. Động từ "tìm" chính là cách nhân hóa để từ đó tác giả khiến cho sóng trở thành một sinh thể như con người và sóng cũng có hành động táo bạo, khát khao và mãnh liệt. Hai câu thơ như là một triết lí. Nói về sóng để tác giả nối về quan niệm tình yêu. Trong tình yêu khi cần thì người con gái cũng có thể từ bỏ những gì là ích kỉ, nhỏ nhen để đạt đến một tình yêu lớn lao và cao thượng, để tìm cho nhau sự đồng điệu, đồng cảm trong tâm hồn.

Giống như "sóng", tình yêu là một hiện tượng, một khái niệm khó lí giải cho rõ ràng. Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: "Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi". Xuân Diệu cũng đã từng băn khoăn, bối rối: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?". Khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim nhà thơ, trong trái tim tuổi trẻ cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại. Cũng như "sóng", nó mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi là như vậy.

"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế".

Hai câu thơ này, tác giả đã khái quát lên hình ảnh "con sóng" của "ngày xưa" và của "ngày sau", con sóng của quá khứ, con sóng ở hiện tại và tương lai, để từ đó đã nói lên được cái thời gian bao hàm cái muôn đời. Sóng của quá khứ của ngày xưa đã được biết đến, nhưng con sóng của ngày nay thì ra sao? Sóng "vẫn thế". Những con sóng muôn đời sau vẫn luôn tồn tại ở các trạng thái đối lập nhau, vẫn "dữ dội", vẫn "dịu êm"… Và con người khi yêu luôn có một "khát vọng tình yêu" mãnh liệt:

"Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".

Khát vọng tình yêu luôn tươi trẻ, rạo rực, "bồi hồi" trong trái tim người phụ nữ và đây cũng là khát vọng tình yêu chính đáng. Cái hay của đoạn thơ là nhà thơ đã đem đến cho hình tượng sóng và khát vọng tình yêu ý nghĩa của lịch sử và chiều sâu quy luật từ ngày xưa tới ngày sau. Có lẽ vì vậy mà sóng luôn luôn rất trẻ trung và hồn thơ của Xuân Quỳnh vì thế mà rất trẻ trung.

Nếu hai khổ thơ đầu sóng là đối tượng cảm nhận thì ở hai khổ thơ tiếp theo sóng trở thành đối tượng suy tư:

"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau".

Khổ thơ đã mở ra một không gian bao la vô cùng và vô tận. Trong không gian đó xuất hiện người con gái trước "muôn trùng sóng bể" với bao trăn trở, suy tư. Ở khổ thơ ta bắt gặp điệp ngữ "em nghĩ về" xuất hiện hai lần cùng với những câu hỏi tu từ triền miên như những đợt sóng vô cùng vô hạn. Đó cũng chính là sự trải lòng của người con gái trước biển về biển lớn, về anh và em. Thực ra là về thế giới tự nhiên và về thế giới nội tâm con người. Những câu hỏi hướng về thế giới tự nhiên: "Từ nơi nào sóng lên?", "Gió bắt đầu từ đâu?" và câu hỏi hướng về thế giới tâm hồn con người "Khi nào ta yêu nhau". Những băn khoăn, trăn trở về thế giới tự nhiên có lúc lí giải được nhưng khó có thể truy tìm được cội nguồn của nó, bởi tự nhiên còn có nhiều điều bí ẩn và những băn khoăn về cội nguồn tình yêu lại càng là một điều bí ẩn hơn. Bởi vậy, ở khổ thơ đã xuất hiện câu thơ phủ định "Em cũng không biết nữa" để thể hiện sự bất lực của cái tôi Xuân Quỳnh trước cội nguồn của thế giói tự nhiên và nội tâm con người. Điều đó chứng tỏ tình yêu từ xưa tới nay đã trở thành điều rất thiêng liêng, diệu kì và huyền bí.

Từ suy tư, trăn trở trong tình yêu để rồi nỗi nhớ dào dạt ùa về ở khổ thơ tiếp theo:

"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".

Trong khổ thơ xuất hiện nhiều điệp từ "con sóng" lặp đi lặp lại tạo thành rất nhiều con sóng trùng điệp liên tiếp xô bờ. Sóng tồn tại ở nhiều hình thức, có con sóng "dưới lòng sâu" thẳm của đại dương, có những con sóng "trên mặt nước" có thể nhìn thấy bằng mắt. Cho dù là sóng ở đâu thì cũng tuân theo một quy luật chung vốn có của nó – sóng vỗ bờ. Và rồi những con sóng của tự nhiên tự lúc nào đã biến thành con sóng tâm trạng để cũng có nỗi nhớ như con người. Hơn nữa, nỗi nhớ của sóng còn là nỗi nhớ da diết khắc khoải, đó là nỗi nhớ choáng ngợp mọi không gian, đó là bề sâu, bề rộng của nỗi nhớ. Nó còn bao trùm bởi thời gian của "ngày đêm". Tác giả đưa ra thời gian vô cùng, không gian vô tận khiến cho nỗi nhớ trở lên vô hồi vô hạn, triền miên tưởng chừng không bao giờ dứt. Nhịp thơ nhanh, sôi nổi, hăm hở đã thể hiện được rõ hơn nỗi nhớ mãnh liệt của sóng hướng tới bờ.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Không chỉ có sóng nhớ nhung mà "em" cũng đầy nỗi nhớ: "Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức". Nỗi nhớ của người con gái chính là nỗi nhớ xuất phát từ tận cõi lòng, từ tận trái tim. Nỗi nhớ ấy không chỉ chiếm chọn thời gian "ngày đêm", cũng không chỉ là nỗi nhớ trong ý thức mà nó còn là nỗi nhớ ăn sâu trong tiềm thức. Nỗi nhớ đã chiếm chọn cả giấc mơ và đủ thấy nó da diết khắc khoải đến mức độ nào.

Khổ thơ tiếp:

"Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương".

Ở khổ thơ này tác giả sử dụng lối nói giả định để nói về hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cách trở. Dù phải bươn trải ngược xuôi trong cuộc đời bao la rộng lớn để tìm kế mưu sinh, phải vẫy vùng trong phương bắc, phương nam rất rộng dài nhưng trái tim người con gái luôn luôn nghĩ về người mà mình yêu. Đó chính là lòng chung thủy. Cách giả định của tác giả chính là lời khẳng định sự thủy chung duy nhất để khẳng định sự bất biến trước vạn biến của cuộc đời.

Xuân Quỳnh không chỉ mượn sóng để nói về người con gái khi yêu mà còn dùng lối nói đối sánh giữa sóng và em để nói về nỗi nhớ của em và bởi vậy nỗi nhớ của em càng nhân lên gấp bội. Từ nỗi nhớ xuất hiện một niềm tin mãnh liệt:

"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở".

Khổ thơ tác giả không chỉ phát hiện ra quy luật của sóng: dù gió to bão lớn thế nào thì con sóng "đại dương", con sóng biển khơi xa cũng hướng "tới bờ" mà tác giả còn nói về hành trình tìm đến bến bờ hạnh phúc, dù khó khăn gian khổ nhưng vẫn thủy chung. Người con gái khi yêu vượt mọi khó khăn cản trở để đi tìm bến đỗ của tình yêu, bến bờ hạnh phúc.

Hai khổ thơ kết bài thơ đọng lại một sự suy tư sâu sắc và khát vọng mãnh liệt của tình yêu. Giọng thơ đang sôi nổi, hăm hở đột nhiên trùng xuống thấm đẫm suy tư:

"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa".

Có rất nhiều nỗi niềm, rất nhiều trăn trở nhưng còn đọng lại trong câu thơ buồn đó là sự suy tư về "cuộc đời", về "năm tháng", về vũ trụ vô tận vô cùng. Để rồi, tự lúc nào tứ thơ đã thể hiện sự lo âu của Xuân Quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô tận của thiên nhiên vũ trụ. Từ lo lắng nhưng dường như nhà thơ cũng cảm nhận được một điều rằng: đến với tình yêu, sống hết mình với tình yêu thì con người mới trở nên bất tử vĩnh hằng.

Kết lại bài thơ bằng bốn câu thơ tuy vẫn theo mạch lô-gic bình thường là nói về hình tượng sóng, nhưng đối tượng "biển lớn tình yêu" đã biến sóng đại dương thành sóng tình. Từ đó, tác giả đã thể hiện khát khao của nhà thơ Xuân Quỳnh – một người ẩn trong sóng để nói về khát vọng tình yêu của chính mình:

"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ".

Xuân Quỳnh đặt ra một câu hỏi: "Làm sao được tan ra…", câu hỏi đó một lần nữa lại cho ta thấy sự suy tư, nỗ lực đi tìm kiếm ra lời giải đáp. Qua đó thể hiện khát vọng của chính mình, khát vọng trở lên mãnh liệt rất nhiều. "Tan" là một động từ mạnh, nó thể hiện khát khao mãnh liệt và khát khao được hòa nhập vào "biển lớn tình yêu", của nhân loại. Khát vọng đó thật đáng quý biết bao, khát vọng được được cống hiến vẻ đẹp cho nhân loại. Cũng như sóng để trường tồn với thời gian thì tình yêu cũng phải dâng hiến, phải từ bỏ sự ích kỉ để tìm đến tình yêu lớn lao, cao đẹp để mãi "còn vỗ" với những con sóng đại dương. Những câu thơ cuối thể hiện được khát vọng tình yêu của cái tôi Xuân Quỳnh đầy nữ tính, sống hết mình vì tình yêu và khát khao một tình yêu vĩnh hằng, bất tử với thời gian, với vũ trụ.

Gấp trang thơ lại rồi nhưng trong lòng người đọc vẫn còn nghe thấy những con sóng đại dương vỗ bờ, những con sóng tình trong ngực trẻ của tình yêu lứa đôi dường như vẫn không bao giờ ngừng nghỉ. Nó vẫn hát tiếp bài ca muôn thuở ngàn đời như những con sóng biển khơi luôn xô bờ. Bài thơ "Sóng" của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh luôn sống mãi với thời gian, với những con người luôn khát khao một tình yêu tuổi trẻ.

Phân tích hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài số 2

Mệnh danh là một nhà thơ trẻ tiêu biểu thời kì chống Mĩ, Xuân Quỳnh đã có những tác phẩm tuyệt vời dành cho nền thơ ca Việt. Trong đó, không thể không kể đến "Sóng".

"Sóng" được viết với những vần thơ như là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh con sóng để bộc bạch cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Bởi vậy mà hai hình ảnh "sóng" và "em" có sự hòa quyện với nhau trong thi phẩm này.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh những con sóng nhấp nhô. Mở đầu là sóng, kết thúc cũng là sóng, để đến khi bài thơ đã khép lại, hìn ảnh những con sóng vẫn lan rộng trong trí nhớ của người đọc. Vì sao lại thế? Đó là bởi đây không còn là những con sóng bình thường mà là con sóng có tâm hồn, có cảm xúc như chính "em" vậy. Từng chuyển động của sóng là từng nhịp cảm xúc của "em". Hai hình tượng "sóng" – "em" như đan vào nhau, như hỗ trợ cho nhau để đi vào lòng người.

Mở đầu tác phẩm, những trạng thái chuyển động của "sóng" là "ồn ào", "lặng lẽ", "dữ dội", "dịu êm". Nếu không đặt mình vào cảm xúc của nhà thơ lúc này, ta chỉ thấy được đây là những trạng thái hết sức bình thường mà bất kì con sóng nào cũng có. Nhưng không. Ý thơ không chỉ đơn giản dừng lại ở đó. Những trạng thái dường như là bình thường ấy còn là tâm trạng của người con gái khi yêu lúc mạnh mẽ lúc hiền hòa sâu lắng. Đó, chỉ vài câu thơ đầu ta đã thấy sự hòa nhập của "sóng" và "em". Những trạng thái khác của sóng trong những câu thơ tiếp theo càng cho ta thấy rõ điều đó.

Rồi từ những chuyển động của "sóng", "em" lại liên tưởng, diễn tả cảm xúc của mình. Giải thích nguồn gốc của "sóng", em lại nghĩ về nguyên do của tình yêu: "sóng bắt đầu từ gió-gió bắt đầu từ đâu-em cũng không biết nữa-khi nào ta yêu nhau". Phải nói rằng, né độc đáo riêng của bài thơ này chính là sự song hành của hai hình ảnh"sóng"-"em". Tác giả sử dụng sự bí ẩn của những con sóng để diễn tả nỗi băn khoăn của mình. Tình yêu là bí ẩn cũng như con sóng kia đâu biết khi nào sẽ dạt vào bờ. "Em" đã cảm thấy bối rối khi nhìn những con sóng kia thật giống với tình yêu của mình. "Khi nào ta yêu nhau".

Không chỉ thế, từng nhịp "sóng" còn được sử dụng để miêu tả nỗi nhớ trong tình yêu của "em". Nỗi nhớ ấy có tầng sâu và bề rộng. Nó cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển triền miên vô hạn. Chỉ có hình ảnh "sóng" lúc này mới diễn tả nỗi lòng của "em" mà thôi.  Nỗi nhớ ấy như "con sóng dưới lòng sâu – con sóng trên mặt nước". Nó cứ gối lên nhau, liên tiếp, mãi không dứt như nỗi nhớ khôn nguôi của nhân vật trữ tình. Và nỗi nhớ ấy cũng là một quy luật cố hữu, bất biến trong tình yêu. Qui luật này cũng đã được nhiều nhà thơ diễn tả như Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình đã viết: "Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ, không thương một kẻ nào".

Xem thêm:  Phân tích vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài thơ Tây Tiến

Để thể hiện khát khao yêu thương cháy bỏng của "em", Xuân Quỳnh đã để cho tầm mắt của mình bao quát tất cả những con "sóng" trên biển. Nếu "sóng" là "em", "bờ" là "anh" thì khát vọng của "sóng" là luôn hướng vào "bờ". Cũng như vậy, đối với "em" là luôn muốn ở bên cạnh anh. "Em" cũng như con sóng kia muốn tìm nơi nương tựa của cuộc đời mình, luôn khát khao tìm về một bến đỗ cho dù có "muôn vời cách trở" đi nữa. "Em" vẫn luôn tin rằng có thể tìm thấy được bến bờ hạnh phúc của mình bởi "trăm ngàn con sóng đó – con nào chẳng tới bờ". Lại đưa tầm mắt mình lên cao và ra xa, Xuân Quỳnh lại cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian để từ đó khát vọng yêu thương càng thêm mãnh liệt. "Em" muốn được như "sóng" kia có tình yêu vĩnh cửu. "Em" mơ ước hóa thân thành những con sóng nhỏ để ngàn năm vỗ mãi trên biển lớn tình yêu: "Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ".

Tóm lại, hình tượng "sóng" – "em" là một đỉnh cao trong ý thơ Xuân Quỳnh. Bằng hai hình ảnh đặc biệt này, không những Xuân Quỳnh bộc bạch được nỗi lòng mình mà còn tạo ra nét ấn tượng để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì lẽ đó mà bài thơ xinh xắn, hồn nhiên này đã trở thành tiêu biểu cho cái tên Xuân Quỳnh trong làng văn nghệ Việt.

Phân tích hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài số 3

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con ngựời Việt Nam, nhựng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tì nh yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó.Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhuỵ giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hôn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 273:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cấu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể

nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng.

Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đấp đổi nhau vể bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa       “dữ dội và dịu êm” – “ồn ào và lặng  lẽ”,  ngay  đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xua – và ngày sau vẫn thế… cứ thế:

-Em nghi vẽ anh em

Em nghĩ về biển lớn

-Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

-Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam. V.V..

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổibnhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về ‘chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định Sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh,Mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác, Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bất hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chi cổ thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi

Mở đầu bài thơ, sông hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang ỵêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ si Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phả i nhà thơ trữ tính thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm….tận bể

Trong khi chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực Vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn Và đó la khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt, Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện  sóng không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Xem thêm:  Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… độc hành” trong bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng

Đứng trước biến, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biến vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biến vẫn thế kia, Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tỉnh vẽti vấn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ bà, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bát dầu từ gió

Gió bất dầu từ dâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng ỉiêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ” Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xã”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhỡn tiền là sự vồ hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao dược tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biền lón rình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Phân tích hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh – Bài số 4

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của “em” – người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh… Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”

(Xuân Diệu)

Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thủy chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc…
Hướng về anh một phương”.

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thủy chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

“Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Vũ Hường tổng hợp

Bài viết liên quan