Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – Văn mẫu lớp 12
Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – Bài số 1
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí. Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – Bài số 2
Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu sắc phong phú về phong tục tập quán ở nhiều vùng miền và lối trần thuật hóm hỉnh sinh động, ông đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người đọc. Một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông chính là "Vợ chồng A Phủ".
"Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Truyện ngắn được in trong tập "Truyện Tây Bắc" xuất bản năm 1953. Truyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính Mị và A Phủ. Hai nhân vật này đã góp phần làm nổi bật giá trị của truyện cũng như mục đíc của tác giả khi sáng tác truyện ngắn này. Và nhân vật A Phủ là đại diện cho những chàng trai Tây Bắc gan bướng, cứng cỏi và không sợ cường quyền.
A Phủ có một lai lịch hết sức đặc biệt. Anh mồ côi cha mẹ, không người thân thích. Anh là người duy nhất trong gia đình sống sót qua nạn dịch. Năm mười tuổi, anh bị bắt đem bán để đổi thóc cho người Thái. Sau đó anh trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đây cuộc đời anh mới gặp nhiều sóng gió. Trong tác phẩm anh được xuất hiện trong đêm tình mùa xuân khi đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra. Sự việc này đã phần nào hé mở về cá tính của nhân vật này.
Trước hết A Phủ là một chàng trai khỏe manh và có tài. Anh là niềm mơ ước của nhiều cô gái. Từ đục lưỡi cày, chăn bò tót… anh đều làm rất thạo. Người ở Hồng Ngài ví nếu có anh ở trong nhà không khác gì có một con trâu tốt. Nhưng anh vẫn không lấy nổi vợ. Vì anh nghèo "chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn ở cổ". Mặc dù vậy, trong đêm tình mùa xuân anh vẫn cầm con quay đi tìm bạn tình. Vì vậy mới sinh sự ở Hồng Ngài. A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Đặc biệt anh không hề sợ con quan. Anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. Anh đánh A Sử mà không phảo sợ sệt hay kiêng nể chịu nép vế vì là con quan. Anh còn gan bướng cứng cỏi đến mức trong cuộc xử kiện, họ đánh đập chửi rủa anh, anh vẫn "im như một tượng đá". Khi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí, anh vẫn tự do. Người nhà thống lí không thể trói buộc được anh. Ngày ngày anh rong ruổi nơi bìa rừng khắp chốn. Một mình anh chăn dắt đàn bò đến mấy chục con. Chẳng may một hôm vì mải mê bẫy nhím anh để hổ ăn mất một con bò. Nhưng anh không hề sợ hãi mà điềm nhiên vác nửa con bò về nhà thống lí. Không chỉ thế anh còn nói với thống lí xin đi bắt hổ về. Quả thực mặc dù trở thành nô lệ cho nhà thống lí nhưng anh vẫn không hề mất đi bản lĩnh, vẫn cứng cỏi, không sợ cường quyền. Cá tính mạnh mẽ của anh con được thể hiện qua tâm lí khi anh bị trói đứng. Anh đứng im cho người nhà thống lí trói mình, rồi không chịu được anh dùng răng nhai đứt mấy vòng dây mây. Anh mạnh mẽ đến mức bị trói đứng mấy ngày liền anh vẫn không hề than oán. Chỉ đến ngày thứ ba cảm nhận mình đã đến bên bờ cái chết anh mới tuyệt vọng để hai hàng nước mắt bò trên gò má. Cá tính mạnh mẽ của anh rất có lợi cho việc giác ngộ cách mạng sau này.
Bằng khả năng khắc họa nhân vật tài tình, Tô Hoài đã xây dựng được một nhân vật hết sức tiêu biểu cho những chàng trai miền Tây Bắc – A Phủ. Một chàng trai khỏe mạnh, có tài năng và cá tính mạnh mẽ. A Phủ là một biểu tượng của chàng trai núi rừng mộc mạc, chân chất. Đồng thời, xây dựng nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn này.
Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – Bài số 3
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ đem đế cho người đọc giá trị nội dung đặc sắc mà còn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả. Nhân vật A Phủ trong tác phẩm là một trong những thành công của Tô Hoài. Qua nhân vật này, Tô Hoài muốn tô đậm bức tranh hiện thực về cuộc sống tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và bọn chúa đất vùng cao lúc bấy giờ. Và chính A Phủ cũng là người giác ngộ cách mạng, tự đứng lên đấu tranh để giải phóng cuộc đời mình.
Sự xuất hiện của nhân vật A Phủ khá đột ngột, khi A Phủ đánh A Sử gây ấn tượng mạnh với người đọc. Cứ tưởng đây là nhân vật có số có má nhưng ngược lại, thân phận A Phủ không khác Mị là mấy. Nói đúng ra là như nhau, đều là những con người nghèo khổ bị nhà thống lí Pá Tra áp bức trở thành nô lệ và trong sâu thẳm những con người này là tình yêu và khát vọng sống, khát vọng được giải phóng cuộc đời.
Trái ngược với một cô gái thùy mị như Mị, A Phủ là chàng trai mạnh mẽ. A Phủ mồ côi cha mẹ trong nạn dịch bệnh, bị bán đổi lấy thóc. Không cam tâm, A Phủ trốn đi làm thuê làm mướn và lưu lạc tới nơi này. Ở A Phủ, Tô Hoài khắc họa một chàng trai Mông khỏe khoắn, được núi rừng hoang dã nuôi lớn, vượt qua bao khắc nghiệt. A Phủ sống hồn nhiên, yêu đời và chính nghĩa, chàng trai này cũng trở thành niềm mơ ước của bao cô gái dân tộc Mèo nhưng chính tập tục của xã hội phong kiến miền núi khiến A Phủ mãi chỉ là người tứ khố vô thân, không thể lấy vợ được.
Cũng chính vì chính nghĩa mà A Phủ đã đánh A Sử dù biết đó là con quan, khiến A Sử bị thương nặng và rồi đã bị đánh đập dã man tại nhà thống lí Pá Tra nhưng tại đây A Phủ tỏ ra rất gan lì, gai góc, không hề khuất phục. Dù bị đày đọa triển miên nhưng cá tính gan góc và tinh thần phản kháng của chàng trai này như con sóng ngầm mỗi ngày một mạnh mẽ. Cãi lại thống lí khi bắt mình đi bắt con hổ đền vào con bò bị mất. Bị trói đứng mà không cần cứu, không vàn xin mà dứt vòng dây trói.
Khi được Mị cứu, A Phủ vùng lên chạy thoát, đó chính là ý thức làm người hết sức bình thường, cũng chính là cơ sở để sau này A Phủ đã trở thành du kích. Khát vọng tự do ở A Phủ âm thầm mà mạnh mẽ, đơn giản mà dữ dội, đặc trưng cho tính cách chàng trai dân tộc Mông.
Tình huống truyện được Tô Hoài xây dựng logic phù hợp với tính cách của từng nhân vật với hành động cởi dây trói cứu A Phủ của Mị là hanh động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau. Hai con người khốn khổ này như chim sổ lồng, tự giải thoát cuộc đời, băng xuống dốc đi về phía tự do.
Qua nhân vật A Phủ, nhà văn đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi lúc bấy giờ đã cướp đoạt sức lao động, quyền làm người của những người lao động hiền lành, chất phác, biến họ thành nô lệ. Ngòi bút Tô Hoài thể hiện sự thương cảm với nỗi khổ đau, bất hạnh của họ, đồng thời ông cũng đã mở ra lối thoát cho họ.
Viết truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã dành bao tâm sức để tác phẩm đạt được chiều sâu và đi vào lòng người bằng cách đi, nhìn, ngẫm và đào xới bản chất con người vùng cao vào các tầng sâu lịch sử để khám phá bản chất con người, qua đó trân trọng khát vọng của họ, hướng họ tới con đường đúng đắn.
Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài – Bài số 4
Tô Hoài đã để A Phủ xuất hiện trong tác phẩm khá đột ngột, thông qua cuộc đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược thời gian để kể lại lai lịch của A Phủ.
Đó là một người có số phận bất hạnh. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ đã chết trong một trận đậu mùa khủng khiếp. A Phủ mồ côi bị người ta bắt đem bán cho một người Thái ở bản dưới. Chốn về những bản vùng cao, mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm thuê để kiếm sống. A Phủ học đủ thứ nghề: "biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Ngoài cái vòng vía đeo trên cổ, A Phủ không có bạc, không có ruộng. Rồi vì đánh A Sử mà A Phủ bị buộc làm người ở gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Ta thấy như A Phủ đã bị buộc phải điểm chỉ bằng cả bàn tay của mình vào bức văn tự bán chính cuộc đời của mình, sự sống của mình, hơn thế nữa, còn bán cả cuộc sống của những kiếp con, kiếp cháu mình cho bọn nhà giàu để trở thành người ở gạt nợ.
Từ đó A Phủ phải làm việc quần quật đủ các việc công việc nặng nhọc và nguy hiểm như: cày ruộng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, quanh năm suốt tháng chỉ có một mình. Rồi vì để hổ bắt mất bò, A Phủ bị đánh bị trói. Kiếp sống của A Phủ không đáng giá bằng kiếp sống của một con bò. Để mất một con bò, A Phủ lại bị thống lý Pá Tra trói đứng vào cột chờ chết. Sức phản kháng bị tê liệt đến mức thống lý Pá Tra bắt A Phủ tự đóng cọc, tự mang dây để hắn trói A Phủ vào cọc. A Phủ chỉ còn biết làm theo thống lý, A Phủ không nghĩ được gì hơn. A Phủ cam chịu và chấp nhận cảnh ngộ của mình. "Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm má đã xám đen lại" của A Phủ và Mị vô tình nhìn thấy chính là tột cùng cho sức chịu đựng của nhân vật này, A Phủ vốn là một người thanh niên khỏe mạnh mà giờ đây đang từng ngày từng giờ đối diện với cái chết. Cuộc đời của người nông dân nô lệ ở Hồng Ngài hình như đều kết thúc với cái cọc trong nhà thống lý, khi mọi cố gắng đều trở nên bất lực. Nếu Mị được miêu tả là một người có sức sống mãnh liệt thì A Phủ được tập trung khắc họa ở tính cách bướng bỉnh, ngang tàng, một con người khát khao sống tự do. Đây cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng.
A Phủ sống giữa núi rừng, anh làm được nhiều nghề đến nỗi con gái trong làng vẫn nói: "Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu", vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bò tót lại biết đúc lưỡi cày, đi săn cái gì cũng làm phăng phăng…A Phủ nghèo không thể lấy nổi vợ nhưng vẫn có đời sống phóng khoáng, hồn nhiên yêu đời, "đang tuổi chơi trong ngày tết đến dù chẳng có quần áo mới như những chàng trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía trên cổ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả bao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. A Phủ cũng là chàng trai bướng bỉnh, ngang tàng khi không chịu được bất công, anh "chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử…A Phủ đã cộc tới nắm cái vòng cổ, kẹp giựt đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp". Sự bướng bỉnh, gan góc thể hiện ở chi tiết A Phủ không khóc lóc van xin mà "quỳ xuống chịu đòn, chỉ im như tượng đá". Nhân vật này cũng khao khát tự do đến mức dù mệt và đói, nhưng được Mị cởi trói thì A Phủ cũng vùng thoát chạy đi. Dẫu đi trong đêm tối họ chưa biết đi đâu nhưng thoát ra khỏi nhà thống lý nghĩa là đã thoát được cái địa ngục trần gian. Cuối cùng A Phủ và Mị đã tìm đến khu du kích Phiềng Sa, tìm đến tự do. Từ đấu tranh tự phát, họ đã tiến tới đấu tranh tự giác. Có thể nói ở A Phủ là vấn đề tìm được nhận đường, và đó là bài ca ca ngợi quá trình đấu tranh của con người để tìm đến tự do.
Nếu ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện những diễn biến nội tâm sâu sắc, thể hiện bút pháp miêu tả tâm lý bậc thầy thì ở A Phủ nhà văn tập trung xây dựng nhân vật qua hành động mang tính chất bộc trực, khẳng khái. Điều đó góp phần thể hiện tính cách nhân vật.
Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi nói chung. Cùng với Mị, A Phủ tượng trưng cho số phận những con người từ trong bóng tối của cuộc đời cam chịu, tủi cực, đã vươn tới ánh sáng của sự tự do, ánh sáng của cách mạng. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện sâu sắc qua hình tượng nhân vật A Phủ. Đây quả thực là một trong những nhân vật kiểu mẫu mà Tô Hoài muốn lột tả cho bạn đọc của mình.
Vũ Hường tổng hợp